Xác định công tác phổ biến giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong tổ chức thi hành pháp luật; đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin pháp luật của công dân, phòng ngừa vi phạm pháp luật. Theo đó, trong thời gian qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn đã được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đạt được nhiều kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện vẫn còn có một số khó khăn, vướng mắc nhất định, đặc biệt là những khó khăn từ thể chế và nguồn lực bảo đảm, cụ thể:
Công tác phổ biến giáo dục pháp luật
Thứ nhất, tổ chức thi hành phổ biến, giáo dục pháp luật
Hiện nay, theo số liệu thống kê, đội ngũ báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh là 265 người; báo cáo viên cấp huyện là 188 người; tuyên truyền viên pháp luật cấp xã là 1.973 người; hòa giải ở cơ sở là 6.945 hòa giải viên; bên cạnh đó còn có đội ngũ báo cáo viên được thành lập theo ngành dọc, như: Đội ngũ giáo viên kiêm nhiệm giảng dạy kiến thức Quốc phòng và An ninh của Công an tỉnh; giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân ở hệ thống trường trung học cơ sở, trung học phổ thông.... Mặc dù số lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên tương đối nhiều, tuy nhiên thực tiễn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, như: Nội dung tuyên truyền, phổ biến còn đơn điệu, chưa đa dạng về hình thức tuyên truyền, phổ biến; nhiều báo cáo viên đến nay chưa tham gia tuyên truyền, phổ biến lần nào hoặc khi được mời tham gia nhưng từ chối...
Mặt khác, hình thức tuyên truyền, phổ biến hiện nay chủ yếu vẫn là tuyên truyền miệng, qua phương tiện thông tin đại chúng, phát tờ gấp, tờ rơi…nên chưa phát huy hiệu quả như mong muốn. Một số hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) khác thu hút được đông đảo người tham gia, như: Hòa giải ở cơ sở, câu lạc bộ, hội thi nhưng ít có điều kiện tổ chức do kinh phí hạn hẹp. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác PBGDPL tuy đã được áp dụng song vẫn còn nhiều hạn chế.
Sự phối hợp giữa các ngành, thành viên Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật (HĐPHPBGDPL) các cấp có nơi, có lúc chưa thường xuyên. HĐPHPBGDPL hoạt động theo cơ chế phối hợp, các thành viên làm việc kiêm nhiệm nên chưa dành nhiều thời gian đầu tư cho công tác PBGDPL, phần lớn thành viên tham gia Hội đồng phối hợp các cấp giữ vị trí lãnh đạo ở sở, ban, ngành, đoàn thể địa phương phải đảm trách nhiều công việc nên sự chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn và phối hợp đôi khi chưa thật sự sát sao.
Kinh phí cấp cho hoạt động PBGDPL của cấp tỉnh; UBND cấp huyện còn hạn hẹp do đó khó khăn trong việc triển khai các hoạt động PBGDPL; tại các sở, ban, ngành, đoàn thể ở tỉnh hầu như không có kinh phí riêng cho hoạt động này mà được trích từ nguồn kinh phí chi thường xuyên của cơ quan, đơn vị để lồng ghép tổ chức triển khai các hoạt động PBGDPL gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn; cơ sở vật chất, phương tiện làm việc dành cho công tác PBGDPL còn hạn chế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa hoặc những địa bàn khó khăn. Chế độ, chính sách cho báo cáo viên, tuyên truyền viên còn thiếu, chưa thực sự khuyến khích và phát huy được tiềm năng của đội ngũ làm công tác PBGDPL.
Thứ hai, thể chế về phổ biến, giáo dục pháp luật
Thông tư số 03/2018/TT-BTP ngày 10/3/2018 của Bộ Tư pháp quy định Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Theo đó, điểm b khoản 3 Điều 7 Thông tư số 03/2018/TT-BTP quy định nhóm tiêu chí về các điều kiện bảo đảm thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật “Hằng năm đều bố trí đủ kinh phí triển khai thực hiện các Chương trình, Đề án về phô biến, giảo dục pháp luật thuộc phạm vi được giao chủ trì thực hiện”. Việc xác định kinh phí được bố trí đủ hay không, không có định lượng cụ thể, do đó điểm chấm đối với nội dung này dựa trên ý chí chủ quan của người chấm điểm.
Công tác hòa giải ở cơ sở, chuẩn tiếp cận pháp luật
Thứ nhất, hoạt động hòa giải ở cơ sở và chuẩn tiếp cận pháp luật ở một số đơn vị không được kinh phí cấp riêng mà được trích từ nguồn kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương, do đó việc triển khai một số nhiệm vụ còn khó khăn, như: Công tác tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở; việc đảm bảo điều kiện vật chất tối thiểu phục vụ cho hoạt động hòa giải của các tổ hòa giải như văn phòng phẩm, thù lao tham gia hoạt động hòa giải…. Mặt khác, do đặc thù là tỉnh miền núi, đời sống kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa cao, điều kiện để ứng dụng công nghệ thông tin, cập nhật kiến thức pháp luật của đội ngũ hòa giải viênở cơ sở, đặc biệt là hòa giải viên ở các thôn vùng sâu vùng xa có những khó khăn, hạn chế nhất định.
Thứ hai, theo Quy định tại khoản 19 Điều 4 Thông tư số 100/2014/TTLT-BTC-BTP quy định "chi thù lao cho hòa giải viên (đối với các hòa giải viên trực tiếp tham gia vụ, việc hòa giải): Mức chi tối đa 200.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải".
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội trong thực tiễn đã có nhiều thay đổi, vì vậy, với mức chi tối đa 200.000 đồng/vụ, việc là thấp, chưa tương xứng với hoạt động của các tổ hòa giải, hòa giải viên. Khi hòa giải một vụ việc, nhất là các vụ việc mâu thuẫn, tranh chấp về quan hệ hôn nhân - gia đình hay tranh chấp đất đai... hòa giải viên phải mất nhiều thời gian, công sức để hòa giải các bên, giúp các bên đạt được thỏa thuận hòa giải thành. Đặc biệt, đối với những vụ việc phức tạp, tranh chấp đất đai thì ngoài việc cần nắm vững kiến thức pháp luật chung, pháp luật về đất đai, kinh nghiệm hòa giải, đòi hòi hòa giải viên phải tự mình tìm hiểu, xác minh các thông tin ở địa phương, tổ chức liên quan, người có uy tín, những người biết về nguồn gốc sự việc mâu thuẫn... để phân tích, giải thích, thuyết phục các bên thương lượng, tự giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp cho hợp tình, hợp lý, đạt kết quả; trong những trường hợp như thế, việc hòa giải không chỉ tiến hành một, hai lần mà có thể nhiều lần, có vụ việc phải kéo dài mới đạt được kết quả hòa giải thành. Từ đó cho thấy, để thực hiện một vụ việc hòa giải, các hòa giải viên đã phải bỏ ra rất nhiều công sức, thời gian, đi lại.
Nhằm nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL, hòa giải ở cơ sở, chuẩn tiếp cận pháp luật, nhằm góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương và hạn chế các khiếu kiện, khiếu nại… thì một trong những yêu cầu đặt ra là tiếp tục hoàn thiện thể chế về công tác PBGDPL, hòa giải ở cơ sở, chuẩn tiếp cận pháp; theo đó, tiếp tục đảm bảo cơ chế, chính sách và trách nhiệm đối với đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, hòa giải viên cơ sở; đảm bảo nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt động PBGDPL, hòa giải ở cơ sở, đặc biệt là ở các địa phương điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn; huy động sự vào cuộc của các tổ chức, doanh nghiệp tham gia hỗ trợ hoạt động PBGDPL, hòa giải ở cơ sở./.