Ngày 24/12/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 120/2021/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (viết tắt là Nghị định số 120/2021/NĐ-CP) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022. Theo đó, Nghị định này quy định việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn) và việc xem xét, quyết định chuyển sang áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính quản lý tại gia đình (sau đây gọi là biện pháp quản lý tại gia đình).
Sau đây xin giới thiệu một số quy định của Nghị định số 120/2021/NĐ-CP.
Câu 1. Theo quy định của pháp luật, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là gì?
Trả lời: Theo khoản 1 Điều 89 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với các đối tượng theo quy định để giáo dục, quản lý họ tại nơi cư trú trong trường hợp nhận thấy không cần thiết phải cách ly họ khỏi cộng đồng.

Câu 2. Đối tượng, thời hiệu và thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được quy định như thế nào?
Trả lời:
Thứ nhất, về đối tượng, thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Theo khoản 2 Điều 5 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP quy định về đối tượng, thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn như sau:
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự thì thời hiệu là 01 năm, kể từ ngày thực hiện hành vi vi phạm;
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự thì thời hiệu là 06 tháng, kể từ ngày thực hiện hành vi vi phạm;
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép thì thời hiệu là 06 tháng, kể từ ngày thực hiện lần cuối một trong các hành vi vi phạm này;
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chiếm giữ trái phép tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép nhưng không phải là tội phạm thì thời hiệu là 06 tháng, kể từ ngày thực hiện lần cuối một trong các hành vi vi phạm này;
- Người từ đủ 14 tuổi trở lên đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy thì thời hiệu là 03 tháng, kể từ ngày thực hiện lần cuối hành vi vi phạm này;
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chiếm giữ trái phép tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép, ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình nhưng không phải là tội phạm thì thời hiệu là 06 tháng, kể từ ngày thực hiện lần cuối một trong các hành vi vi phạm này.
Thứ hai, về thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Theo khoản 3 Điều 5 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP thì thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 03 tháng đến 06 tháng.
Câu 3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn?
Trả lời: Theo Điều 3 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP thì nguyên tắc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được quy định như sau:
Thứ nhất, kịp thời, công khai, khách quan, công bằng; đúng thẩm quyền, đối tượng, trình tự, thủ tục quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 120/2021/NĐ-CP.
Thứ hai, không xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người vi phạm.
Thứ ba, tôn trọng và bảo vệ bí mật cá nhân của người vi phạm.
Thứ tư, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân bị xem xét áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Thứ năm, bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong cộng đồng, nhà trường và gia đình trong việc giúp đỡ, giáo dục người bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Thứ sáu, việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân người vi phạm, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.
Thứ bảy, chỉ áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên trong trường hợp cần thiết nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Đối với người chưa thành niên thuộc đối tượng quy định tại các điểm c, d và đ khoản 2 Điều 5 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP, chỉ quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn khi không đủ điều kiện áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình. Việc áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình không được coi là đã bị xử lý vi phạm hành chính.
Thứ tám, trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính phải bảo đảm lợi ích tốt nhất cho họ.
Câu 4. Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp quản lý tại gia đình được quy định như thế nào?
Trả lời: Theo Điều 7 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP quy định người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp quản lý tại gia đình như sau:
Thứ nhất, người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của Luật Xử lý vi phạm hành chính gồm:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi người vi phạm cư trú;
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cơ sở bảo trợ xã hội tiếp nhận người chưa thành niên không có nơi cư trú ổn định đặt trụ sở;
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phát hiện người từ đủ 18 tuổi trở lên có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy lần cuối, không có nơi cư trú ổn định.
Thứ hai, người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình quy định tại khoản 2 Điều 140 của Luật Xử lý vi phạm hành chính là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên cư trú.
Thứ ba, người được giao quyền đứng đầu hoặc phụ trách Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định tại Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước trong thi hành nhiệm vụ, công vụ có thẩm quyền áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp quản lý tại gia đình như Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
Câu 5. Thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được quy định như thế nào?
Trả lời: Theo Điều 11 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP thì thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được quy định như sau:
Thứ nhất, cá nhân bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định hoặc 01 năm, kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định mà không tái phạm, thì được coi là chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Thứ hai, người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định mà không tái phạm thì được coi là chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Câu 6. Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động nào trong quá trình áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn?
Trả lời: Theo khoản 1 Điều 12 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP thì các hoạt động trong quá trình áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được Nhà nước hỗ trợ kinh phí gồm:
Thứ nhất, chi phí xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
Thứ hai, chi phí xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể và xác định tình trạng nghiện;
Thứ ba, chi phí tổ chức cuộc họp tư vấn;
Thứ tư, chi phí cho việc chuyển giao đối tượng về nơi cư trú hoặc đến cơ sở bảo trợ xã hội;
Thứ năm, chi phí cho việc tổ chức quản lý đối với trường hợp người từ đủ 18 tuổi trở lên có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy không có nơi cư trú ổn định;
Thứ sáu, chi phí cho việc tổ chức giáo dục, quản lý người chưa thành niên tại các cơ sở bảo trợ xã hội;
Thứ bảy, chi phí hỗ trợ cho người được phân công giúp đỡ người được giáo dục;
Thứ tám, chi phí cho công tác quản lý việc thi hành pháp luật về áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
Thứ chín, các chi phí cần thiết khác.
Câu 7. Các đối tượng nào phải xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể và xác định tình trạng nghiện?
Trả lời: Theo Điều 18 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP các đối tượng phải xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể và xác định tình trạng nghiện được quy định như sau:
Thứ nhất, xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể và xác định tình trạng nghiện theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy đối với các đối tượng sau:
- Người từ đủ 14 tuổi trở lên đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy thì thời hiệu là 03 tháng, kể từ ngày thực hiện lần cuối hành vi vi phạm này (điểm a khoản 1 Điều 18 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP)
- Đối tượng đang trong thời gian chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Thứ hai, trường hợp đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 18 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP có kết quả xét nghiệm dương tính với chất ma túy trong cơ thể thì người có thẩm quyền hoặc người đề nghị xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể đối với người vi phạm gửi ngay kết quả đến Trưởng Công an cấp xã nơi người đó cư trú hoặc Trưởng Công an cấp xã nơi người đó thực hiện hành vi vi phạm để xem xét, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Thứ ba, trường hợp đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 18 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP được xác định là nghiện ma túy thì thực hiện việc cai nghiện ma túy theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy.
Thứ tư, trường hợp đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 nêu trên mà được xác định là nghiện ma túy thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải ra quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp và xử lý như sau:
- Người từ đủ 12 tuổi trở lên đang trong thời gian chấp hành biện pháp mà bị xác định là nghiện ma túy thuộc trường hợp quy định tại các Điều 30, 31 và 33 Luật Phòng, chống ma túy thì thực hiện việc cai nghiện theo quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy;
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên đang trong thời gian chấp hành biện pháp mà bị xác định là nghiện ma túy thuộc trường hợp đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định Luật Phòng, chống ma túy, thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Câu 8. Thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được quy định như thế nào?
Trả lời: Theo khoản 3 Điều 26 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP quy định thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn như sau:
Thứ nhất, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng hết thời hiệu thi hành sau 06 tháng, kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hết thời hiệu thi hành sau 01 năm, kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, trong trường hợp người phải chấp hành quyết định cố tình trốn tránh việc thi hành, thì thời hiệu quy định tại mục 1,2 nêu trên được tính kể từ thời điểm hành vi trốn tránh chấm dứt.
Câu 9. Người được giáo dục trong thời gian chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có những quyền gì?
Trả lời: Theo khoản 1 Điều 36 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP quy định về quyền của người được giáo dục trong thời gian chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn như sau:
Thứ nhất, được lao động, học tập, sinh hoạt tại nơi cư trú, được hướng dẫn thực hiện thủ tục khai báo tạm vắng, đăng ký thường trú, tạm trú;
Thứ hai, được tạo điều kiện tìm việc làm; được xem xét hỗ trợ cho vay vốn từ các ngân hàng chính sách xã hội, các quỹ xã hội, quỹ từ thiện, nhân đạo ở địa phương trong trường hợp là người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn;
Thứ ba, được tham gia các chương trình học tập hoặc dạy nghề; các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống phù hợp được tổ chức tại địa phương;
Thứ tư, được đề đạt nguyện vọng, kiến nghị của mình đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Trưởng Công an cấp xã, tổ chức xã hội, nhà trường và người được phân công giúp đỡ;
Thứ năm, được vắng mặt tại nơi cư trú hoặc thay đổi nơi cư trú theo quy định;
Thứ sáu, khiếu nại, khởi kiện quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và các hành vi hành chính khác trong quá trình chấp hành quyết định.
Câu 10. Người được giáo dục trong thời gian chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có những nghĩa vụ gì?
Trả lời: Theo khoản 2 Điều 36 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP quy định về nghĩa vụ của người được giáo dục trong thời gian chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn như sau:
Thứ nhất, chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước;
Thứ hai, tích cực tham gia lao động, học tập, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy định của địa phương nơi cư trú;
Thứ ba, chịu sự giáo dục, quản lý của cơ quan và tổ chức xã hội và người được phân công giúp đỡ; người chưa thành niên được giáo dục còn nhận sự giáo dục, quản lý của gia đình và nhà trường;
Thứ tư, thực hiện nghiêm nội dung đã cam kết;
Thứ năm, có mặt khi người có thẩm quyền yêu cầu;
Thứ sáu, thông báo, báo cáo về lý do, thời gian vắng mặt tại nơi cư trú và nơi đến lưu trú trong trường hợp được vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định.
Câu 11. Người được giáo dục được chấm dứt việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn khi nào?
Trả lời: Theo Điều 41 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP quy định người được giáo dục được chấm dứt việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn như sau:
Thứ nhất, người được giáo dục đã chấp hành ít nhất 1/2 (một phần hai) thời gian giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà không tiến bộ, tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm thuộc trường hợp người từ đủ 18 tuổi trở lên đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi quy định tại khoản 6 Điều 90 của Luật này nhưng không phải là tội phạm và không có nơi cư trú ổn định hoặc người từ đủ 18 tuổi trở lên thực hiện một trong các hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chiếm giữ trái phép tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép, ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình nhưng không phải là tội phạm. và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ra quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
Thứ hai, chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải ra quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp và xử lý như sau:
- Người từ đủ 12 tuổi trở lên đang trong thời gian chấp hành biện pháp mà bị xác định là nghiện ma túy thuộc trường hợp Cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, Cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy, Cai nghiện ma túy cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định Luật Phòng, chống ma túy thì thực hiện việc cai nghiện theo quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy;
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên đang trong thời gian chấp hành biện pháp mà bị xác định là nghiện ma túy thuộc trường hợp bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật Phòng, chống ma túy, thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Câu 12. Việc phối hợp giám sát người chưa thành niên được áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình được quy định như thế nào?
Trả lời: Theo Điều 44 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP quy định về phối hợp giám sát người chưa thành niên được áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình như sau:
Thứ nhất, trách nhiệm của gia đình người chưa thành niên:
- Quản lý, giám sát người chưa thành niên;
- Quan tâm, tạo điều kiện cho người chưa thành niên được đi học, tham gia các chương trình học tập, dạy nghề khác, các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống phù hợp được tổ chức tại địa phương;
- Định kỳ hằng tháng báo cáo với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã về tình hình quản lý, giám sát người chưa thành niên;
- Phối hợp với tổ chức, cá nhân được phân công phối hợp giám sát thực hiện kế hoạch giám sát người chưa thành niên.
Thứ hai, tổ chức được phân công phối hợp giám sát có trách nhiệm phân công người trực tiếp phối hợp với gia đình để quản lý, giám sát người chưa thành niên.
Thứ ba, cá nhân được tổ chức phân công, cá nhân được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao trách nhiệm phối hợp giám sát phải phối hợp cùng với gia đình người chưa thành niên thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch để giám sát người chưa thành niên. Kế hoạch phối hợp giám sát gồm các biện pháp hướng dẫn, hỗ trợ giám sát cụ thể, thời hạn thực hiện và phải được gửi cho tổ chức được phân công phối hợp giám sát và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;
- Giới thiệu tham gia các chương trình học tập, hướng nghiệp, dạy nghề, tìm việc làm; các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống tại cộng đồng được tổ chức tại địa phương;
- Giúp đỡ, động viên người chưa thành niên sửa chữa sai phạm.
Câu 13. Quyền của người chưa thành niên được áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình được quy định như thế nào?
Trả lời: Theo khoản 1 Điều 45 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP quy định về quyền của người chưa thành niên được áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình như sau:
Thứ nhất, được học tập, sinh hoạt tại nơi cư trú;
Thứ hai, không bị phân biệt đối xử;
Thứ ba, được tham gia các chương trình học tập hoặc dạy nghề; các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống phù hợp được tổ chức tại địa phương;
Thứ tư, được các cơ sở giáo dục xem xét, tiếp nhận học tập;
Thứ năm, được áp dụng các biện pháp hỗ trợ, bảo vệ phù hợp theo quy định của pháp luật;
Thứ sáu, được vắng mặt tại nơi cư trú hoặc thay đổi nơi cư trú theo quy định;
Thứ bảy, khiếu nại, khởi kiện quyết định áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình và các hành vi hành chính khác trong quá trình chấp hành quyết định.
Câu 14. Nghĩa vụ của người chưa thành niên được áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình được quy định như thế nào?
Trả lời: Theo khoản 2 Điều 45 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP quy định về nghĩa vụ của người chưa thành niên được áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình như sau:
Thứ nhất, chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước;
Thứ hai, tích cực học tập, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy định của địa phương nơi cư trú;
Thứ ba, chịu sự giáo dục, quản lý, giám sát của gia đình, nhà trường và người được phân công phối hợp giám sát.
Câu 15. Chấm dứt việc áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình trong thời gian áp dụng biện pháp như thế nào?
Trả lời: Theo Điều 46 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP quy định chấm dứt việc áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình trong thời gian áp dụng biện pháp như sau:
Thứ nhất, người chưa thành niên được áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã ra quyết định áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình ra quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp và xử lý như sau:
- Nếu hành vi vi phạm thuộc trường hợp quy định tại các điểm c, d và đ khoản 2 Điều 5 Nghị định số 120/2021/NĐ-CP thì ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
- Nếu hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã ra quyết định áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình phải ra quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp này đối với người chưa thành niên bị xác định là nghiện ma túy.
Việc cai nghiện cho người chưa thành niên nghiện ma túy thực hiện theo quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy.